Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

Tim hiểu chuyên sâu về trị số pH


Trị số pH của một chất lỏng là đơn vị đo lường cho tính axit, trung tính hay kiềm của chất lỏng đó. Mỗi lọai axit đều chứa ion H+ và mỗi lọai chất kiềm đều chứa ion OH-. Nồng độ các ion này xác định họat tính của axit hay kiềm của dung dịch.


Theo thuyết phân li của Arrhenius thì trong mỗi dung dịch có một phần các phân tử trung hòa phân li thành ion dương hay ion âm. Tỉ lệ số phân tử phân li và tòan thể phân tử được gọi là độ phân giải. Vì các ion chuyển tải điện tích, cho nên càng nhiều các phân tử được phân li, dung dịch dẫn điện càng tốt.
Nước tinh khiết dẫn điện rất kém, do có rất ít phân tử nước bị phân li. Khi phân li, nước có thể được viết dưới công thức:
H2O<=> H+ + OH-
Số lượng ion H+ và ion OH- bằng nhau, do đó nước trung tính.
Ở trạng thái cân bằng ta có: k={[H+].[OH-]}/[H2O] (1)
[H2O]: Nồng độ của nước tính theo Mol/l.
[H+]: Nồng độ của ion H+ tính theo g-ion/l.
[OH-]: Nồng độ của ion OH- tính theo g-ion/l.
k: Hằng số phân li của nước.
Từ phương trình (1) ta có hằng số phân li của nước ở nhiệt độ 25 độ C với trị số 1,8.10E(-16) trong các dung dịch có nước, số phân tử của nước chưa phân li chiếm đa số. Hay nói cách khác vì nước có độ phân li rất thấp, cho nên ta có thể coi nồng độ chưa phân li của nước bằng nồng độ tòan phần của nước.
Một lít nước ở nhiệt độ 25 độ C nặng 997g. Như vậy trong một lít nước ở 25 độ C chứa 997/18 = 55,3 Mol nước. Trị số này thực tế không thay đổi, do đó ta có tích số :
[H+].[OH?] = k.[H2O]
[H+].[OH?] = 1,8.10E(-16).55,3
[H+].[OH?] = 1,0.10E(-14)
Tích số này là tích số ion của nước. Trị số của tích số này chỉ có giá trị ở 25 độ C, tuy nhiên nó cũng có giá trị cho tất cả tích số ion của các dung dịch khác. Điều đó có nghĩa rằng: Tích số của nồng độ H+ và nồng độ OH- cho tất cả các dung dịch có nước ở cùng một nhiệt độ là một hằng số. Trong nước tinh khiết có số lượng ion H+ bằng số ion OH-. Do đó:
[H+] = [OH-] = 10E(-7) g-ion/lit
Vậy trong 10 triệu lít nước tinh khiết ta có 1g ion H+ và 17g ion OH- !
Nếu ta cho axít vào nước, nồng độ ion H+ tăng lên. Đồng thời nồng độ ion OH- bắt buộc phải giảm đi.
Nếu ta cho một chất kiềm vào nước, nồng độ ion OH- tăng lên. Đồng thời nồng độ ion H+ bắt buộc phải giảm đi.
Trong cả hai trường hợp tích số [H+].[OH?] ở 250C luôn bằng 10E(-14) .
Nói tóm lại nếu cho kiềm hay axít vào nước thì tích số ion H+ và ion OH- không thay đổi và giữ một trị số cố định là 10E(-14). Khi biết nồng độ ion H+ trong một dung dịch có nước, ta có thể tính được nồng độ ion OH- dễ dàng. Do đó nồng độ ion H+ không chỉ cho biết tính chất axít của một dung dịch mà còn là thước đo tính chất kiềm của một dung dịch. [H+] còn có thể hiểu là họat tính của nồng độ hiện dụng của ion H+.
Năm 1909 Sørensen đề xuất khái niệm pH (potentia Hydrogenii)
Thay vì nồng độ ion H+ người ta thay vào đấy trị số pH.
pH là (-1) nhân với logarit thập phân của nồng độ ion H+ tính theo g-ion/lit.
pH = log 1/[H+] = -log [H+] (2)
Như vậy với [H+] = 10E(-7) g-ion/lít, nước tinh khiết có độ pH = 7.
Theo thời gian, người ta nhận thấy rằng định nghĩa của trị số pH do Sørensen đề xuất không thỏa mãn yêu cầu thực tế. Thay vào đấy là một định nghĩa khác: 
pH = -log aH+ (3)
aH+ là họat tính của ion hydro.
Họat tính này chịu ảnh hưởng của 3 thông số fm, fH+ và mH+
pH = -log aH+ = -log (fm . fH+ . mH+)
fm là hiệu ứng môi trường:
Tính axít phụ thuộc một cách tương đối vào môi trường hòa tan và nhiệt độ. HCl khi được pha trong ethanol có tính axít mạnh gấp 200 lần so với khi pha trong nước. Đối với dung dịch có nước fm được coi như bằng 1 cho tất cả các nhiệt độ.
fH+ là hiệu ứng muối:
Tính axít cũng phụ thuộc vào độ bền ion tòan phần trong một dung dịch. Sự ảnh hưởng này do hiệu ứng muối. Ví dụ với 0,01 mol HCl và nước ngyuên chất ta có trị số pH = 2,00. Nhưng nếu ta pha thêm 0,09 mol KCl trị số pH gia tăng lên 2,10 !
mH+ là nồng độ ion hydro:
Đó là số mol ion H+ trong một kg chất hòa tan.
Họat tính thay vì nồng độ:
Ngày nay thang họat tính pH = -log aH+ được chấp nhận một cách phổ thông vì:
1. Chính họat tính của ion hydro xác định tính axít của một dung dịch chứ không phải nồng độ.
2. Họat tính của ion hydro có thể được đo bằng các điện cực nhạy cảm với ion hydro.
Sự liên hệ giữa các định nghĩa cũ có thể được tính gần đúng như sau:
pH = pHSørensen +0.04
Với (2) pH = -log [H+] là định nghĩa lý thuyết.


Thang đo pH trải dài từ 0 đến 14. Axit có trị số từ 0-7 và chất kiềm từ 7-14. Trị số pH có thể đạt đến –1 (axít đậm đặc) và +15 (kiềm đậm đặc).
Trị số pH chỉ là một con số không có đơn vị. Ví dụ: Một dung dịch có trị số pH = 5, không được viết là dung dịch có 5pH ! 







Hình 1: Chỉ số pH của một số chất trong thiên nhiên và quá trình sản xuất công nghiệp.




Vì thang đo pH là thang logarit, cho nên khi trị số pH thay đổi 1 số ta có sự thay đổi nồng độ với hệ số 10.





Hình 2: Thang đo pH và nồng độ ion


Có một số các phẩm màu thay đổi màu sắc khi trị số pH thay đổi. Với phương pháp so màu trị số pH không thể xác định chính xác được. Ngày nay người ta dùng phương pháp đo điện tử để xác định trị số pH một cách chính xác hơn.


Đo nồng độ ion H+ bằng phương pháp điện tử.


Nhúng một thanh kim lọai vào dung dịch có muối của nó, có 2 trường hợp xảy ra:
1. Các nguyên tử kim loại đi vào trong dung dịch.
Mc =>Mcn+ + n.e-
Trường hợp này một số electron tự do ở lại trên kim lọai và phát sinh sự dư electron.
2. Các ion kim lọai trong dung dịch bám phủ lên bề mặt thanh kim lọai
Mcn+ + n.e- =>Mc
Trường hợp này phát sinh sự thiếu electron trên kim lọai.
Trường hợp dư electron trên kim lọai, thanh kim lọai có điện tích âm và có điện thế âm so với dung dịch.
Trường hợp thiếu electron, ta có một tình thế ngược lại.
Như thế khi nhúng thanh kim lọai vào dung dịch muối của chúng, một điện thế giữa ranh giới thanh kim lọai và dung dịch được hình thành. Trị số của điện thế này tùy thuộc vào kim lọai và nồng độ dung dịch muối, nhiệt độ và vài yếu tố khác. Trị số này được viết dưới phương trình Nernst:


E = E0 + 2,303.(RT/F)logC [V] (4)
E0: Điện thế chuẩn (được cho = 0)
R: Hằng số khí = 8,136 Volt Coulomb/K.mol
F: Điện tích Faraday tương đương 96439 Coulomb/mc
C: Nồng độ ion kim lọai trong dung dịch
T: Nhiệt độ (K)
Để có một dòng điện đo được, ta cần có một mạch điện khép kín. Để đo điện thế E ta cần có thêm một điện cực chuẩn (còn gọi là điện cực so sánh, điện cực qui chiếu) có điện thế biết trước và không thay đổi theo nhiệt độ hay trị số pH của dung dịch. Điện cực này được mắc nối tiếp với điện cực đo (Hình 3). Điện cực a được nhúng vào dung dịch b có trị số pH cần được đo. Trong khi đó dung dịch c có nồng độ ion H+ cố định và được biết trước cho điện cực d một điện thế không đổi. Dung dịch b và c được ngăn cách bở 1 vách xốp, ion có thể qua lại vách xốp này. Với đồng hồ đo f ta đo được hiệu điện thế.
Như vậy để đo trị số pH bằng phương pháp điện tử ta cần 2 điện cực: một điện cực gọi là điện cực đo và một điện cực gọi là điện cực chuẩn.





Hình 3: Nguyên tắc đo nồng độ ion H+ với điện cực đo và điện cực chuẩn


Khi hai điện cực đo và điện cực chuẩn cùng được nhúng vào một dung dịch, một hiệu số điện thế giữa hai điện cực đo được hình thành theo định luật Nernst Theo (4) và với định nghĩa lý thuyết của pH theo (2)
V = Vđo - Vchuẩn = V0 + 2,303.(RT/F).(pHb-pHc) (5)
V = V0 –VN(T). DpH (6)
Với VN(T) = 2,303.(RT/F) (7)
Với cách diễn tả này, điện thế đo được có sự liên hệ tuyến tính với trị số pH. Độ dốc VN(T) của đường thẳng này bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ còn gọi là điện thế Nernst.
Tiếp theo ta lần luợt khảo sát các lọai điện cực đo và điện cực chuẩn, thường cả hai điện cực này được ghép chung với nhau thành điện cực tổng hợp để thao tác cho đơn giản.


Điện cực Antimon và điện cực Wismut


Điện cực Antimon được làm bằng một thanh Antimon hay một thanh kim lọai hay một thanh graphit có tráng Antimon. Ở trạng thái cân bằng điện thế có được từ:
Sb + 3OH- <=> Sb(OH)3 + 3e-
Tùy theo mục đích sử dụng mà đường kính của điện cực có kích thước thích hợp. Dù rằng độ chính xác không cao DpH = ± 0.2, nhưng cách sử dụng đơn giản, bền chắc. Điện cực Antimon được dùnh nhiều trong công nghiệp hay dùng để đo độ pH của đất. Sau thời gian sử dụng khá lâu, bề mặt của điện cực bị phủ một lớp oxit, trị số pH đo được không còn chính xác. Do đó lâu lâu cần vệ sinh điện cực (một cách cẩn thận!). 
Dải đo của điện cực Antimon kéo dài từ 0,4-12,5 pH.
Điện thế của điện cực Antimon có thể bị ảnh hưởng bởi các hiệu ứng gây nhiễu khi dùng với dung dịch có tính khử mạnh (H2S), oxit hóa mạnh (Cl2), có sự hiện diện của dầu hay muối mạnh. Độ dẫn điện của nước cần đo trị số pH với điện cực Antimon cần có trị số ít nhất 150 mg NaCl/l. Nhiệt độ của điện cực Antimon ảnh hưởng đến trị số của pH đo được như sau. Trong khỏang từ 100C-600C, với Dt = T2 - T1 ta có sự thay đổi DpH so với trị số pH ở T1:
DpH = Dt (0,015+0,0024 pH)
Trong hình 4 cho ta cấu trúc của 1 điện cực antimon với điện cực chuẩn là Ag/AgCl. Cấu trúc của điện cực Wismut cũng giống như điện cực Antimon, ở trạng thái cân bằng, điện thế tùy thuộc vào trị số pH được tạo bởi:
Bi + 3OH- <=> Bi(OH)3 + 3e-
Trong khi điện cực antimon được sử dụng ở môi trường nghiêng về axít, điện cực wismut được sử dụng ở môi trường nghiêng về kiềm. Cũng như điện cực antimon, sau một thời gian sử dụng, bề mặt kim lọai của wismut cần được chà sạch lớp oxit. Dải đo trải dài từ 6-14.


Nguồn : Aquabook

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Tìm hiểu về độ pH trong nước ăn uống và sinh hoạt


         1. Định nghĩa pH:
          pH là một chỉ số xác định tính chất hoá học của nước. Thang pH chỉ từ 0-14; Về lý thuyết, nước có pH = 7 là trung tính. Khi pH > 7, nước lại mang tính kiềm. Thang tính pH là một hàm số Logarrit. Ví dụ pH = 5 có tính a xit cao gấp 10 lần pH = 6, gấp 100 lần so với pH = 7. Theo tiêu chuẩn, pH của nước sử dụng cho sinh hoạt là 6,0 – 8,5 và của nước ăn uống uống là 6,5 – 8,5.
          Người ta thường đo độ pH của nguồn nước để:
          - Đánh giá khả năng ăn mòn kim loại đối với đường ống, các vật chứa nước.
          - Đánh giá nguy cơ các kim loại có thể hoà tan vào nguồn nước như chì, đồng, sắt, cadmium, kẽm… có trong các vật chứa nước, trong đường ống.
          - Tiên liệu những tác động tới độ chính xác khi sử dụng các biện pháp xử lý nguồn nước. Các quy trình xử lý, thiết bị xử lý thường được thiết kế dựa trên pH giả định là trung tính (6 – 8). Do đó, người ta thường phải điều chỉnh pH trước khi xử lý nước.
          2. Ảnh hưởng của độ pH:
         - pH ảnh hưởng đến vị của nước.
         - Nguồn nước có pH>7 thường chứa nhiều ion nhóm carbonate và bicarbonate (do chảy qua nhiều tầng đất đá). Nguồn nước có pH < 7 thường chứa nhiều ion gốc axit. Bằng chứng dễ thấy nhất liên quan giữa độ pH và sức khỏe của người sử dụng là nó làm hỏng men răng.
         - pH của nước có liên quan đến tính ăn mòn thiết bị, đường ống dẫn nước và dụng cụ chứa nước. Đặc biệt, trong môi trường pH thấp, khả năng khử trùng của Clo sẽ mạnh hơn. Tuy nhiên, khi pH > 8,5 nếu trong nước có hợp chất hữu cơ thì việc khử trùng bằng Clo dễ tạo thành hợp chất trihalomethane gây ung thư.
         - Ảnh hưởng của pH tới sức khoẻ: Trong nước uống, pH hầu như rất ít ảnh hưởng tới sức khoẻ, trừ khi cho trẻ nhỏ uống trực tiếp, trong thời gian tương đối dài (ảnh hưởng đến hệ men tiêu hoá). Tuy nhiên tính a xít (hay tính ăn mòn) của nước có thể làm gia tăng các ion kim loại từ các vật chứa, gián tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
          - Nguyên nhân làm cho nước có pH thấp: Nước mang tính A xit (pH thấp) thường do các nguyên nhân địa lý gây ra, ví dụ như mưa a xít,…
          3. Các dấu hiệu của pH thấp
          - Thường dễ thấy nhất là các vết mờ màu xanh rêu trên các vật chứa bằng đồng, các vết nâu đỏ trên các vật bằng sắt thép. Dấu hiệu khó thấy hơn là các vật dụng kim loại bị mòn dần (dấu hiệu ăn mòn của axit)
          - Xét nghiệm pH của nước giếng: Với các dụng cụ đo đạc tinh xảo, các phòng thí nghiệm sẽ cho kết quả chính xác nhất. Tuân thủ chỉ dẫn của phòng thí nghiệm để việc lấy mẫu không bị sai lệch. Các dụng cụ cầm tay, các bộ thử nhanh chỉ có thể cho ra các con số tương đối.
          4. Cách điều chỉnh khi pH quá thấp:
           - Sử dụng bộ lọc trung hòa:
           Nếu pH không quá thấp, có thể dùng các bộ lọc có vật liệu chính là Calcite (từ đá vôi) hoặc magnesia (magnesium oxide) để nâng pH. Bộ lọc kiểu này có khả năng lọc cặn nên cần thường xuyên rửa ngược, tránh gây tắc nghẽn. Các vật liệu trong bộ lọc tan từ từ và hao hụt dần. Vì thế nên thường xuyên kiểm tra và bổ sung định kỳ.
          - Phương pháp này thường làm tăng lượng can xi và làm cho nước bị cứng hơn. Do đó cần theo dõi độ cứng để có phương pháp điều chỉnh thích hợp. Nếu độ cứng quá cao, lại cần phải làm mềm. Muốn vật liệu sử dụng lâu bền hơn, nên trang bị thêm lọc cặn thô phía trước.
 
          - Điều chỉnh pH bằng hoá chất:
          Với quy mô lớn hoặc khi pH quá thấp, thường dùng bơm định lượng để châm soda hoặc hỗn hợp Soda và Hypochlorite. Việc điều chỉnh bơm sẽ được tính toán dựa trên thực tế, cân đối giữa các tham số: lưu lượng bơm, độ pH, nồng độ dung dịch hoá chất để đảm bảo pH tăng vừa đủ. Khi nguồn nước bị ô nhiễm sắt hoặc nhiễm khuẩn, việc điều chỉnh nồng độ dung dịch soda, hypochlorite sẽ phức tạp hơn. Trong một số trường hợp, có thể sẽ dùng Kali để nâng pH, nhưng phải tính toán kỹ lưỡng để không gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
          Thật ra nâng pH dùng hóa chất có rất nhiều cách: Nước thải dùng NaOH là hiệu quả nhất.. Về lưu lượng nhỏ thì nâng pH bằng hạt L.S là đạt rồi (pH= 5).
          - Phương pháp thủ công:
          Nếu muốn tăng pH lên có thể hòa vào một ít nước vôi trong đây chính là hidroxitcanxi sẽ làm cho pH của nước tăng lên từ 6,5-8,0. Đối với nước ao, hồ mưa nhiều ngày liên tục sẽ làm cho pH ở ao hồ xuống dưới 6,5 do đó người ta rắc vôi bột  để điều chỉnh pH, vì vôi là ôxitcanxi khi cho vào nước sẽ tạo thành CaCO­­­3 kết tủa và hydroxitcanxi tan trong nước Ca(OH)2. Vì độ pH thấp quá sẽ gây cho cá lồi mắt và một số bệnh khác, hơn nữa canxi cũng là chất điện giải không thể thiếu đối với con người cũng như cá vậy.
           - Sử dụng hạt nâng pH  L.S: 
          + Thành phần hóa học cơ bản là CaCO3 > 90%
          + Kích thước hạt: 1,5-2,5mm.
          + Tỷ trọng: 1.500 kg/m3
          +  Dạng hạt màu trắng sữa, cứng, khô rời, có góc cạnh.
         * Ưu điểm :
          - Không cần sử dụng hóa chất và các thiết bị đi kèm như bình pha hoá chất, bơm định lượng.
          - Không tạo độ pH quá cao. Không tạo màng trên bề mặt nước. Nếu ngâm lâu trong nước sẽ tạo độ pH ổn định khoảng 7,5.
          - Vận hành đơn giản.
          - Giá cả thấp hơn nhiều so với các loại vật liệu ngoại nhập.
          - Có thể đưa vào bể lọc đang sử dụng mà không cần thay đổi cấu trúc bể lọc.
         * Phạm vi ứng dụng :
          - pH nước đầu vào > 4,0.
          - Vận tốc lọc: 5-15 m/giờ. Có thể sử dụng trong các bể lọc hở hoặc lọc áp lực.
          - Hướng lọc: từ trên xuống.
          - Hạt L.S không cần hoàn nguyên. Sau một thời gian sử dụng từ 6 tháng đến 1 năm (tùy theo chất lượng nước nguồn) cần bổ sung hạt.
          * Khuyến cáo sử dụng :
          - Hạt L.S có thể sử dụng kết hợp với ODM-2F, ODM-3F, cát thạch anh để nâng pH, tạo độ trong cho nước đồng thời khử các chất ô nhiễm khác, nếu có, trong nguồn nước. Khi sử dụng kết hợp, phải bố trí hạt L.S phía trên cùng của bình lọc.
          - Ngoài ra, hạt L.S có thể được sử dụng riêng lẻ trong một thiết bị chỉ với mục đích nâng pH. Để tăng độ trong của nước nên lót đáy bể lọc bằng một lớp cát thạch anh. Cần lưu ý, việc sử dụng L.S sẽ làm tăng độ cứng của nước.
          - Độ dày lớp hạt L.S có thể điều chỉnh theo độ pH của nước nguồn, dao động từ 0,1-0,5 m đối với pH từ 6,0-4,0 và tốc độ lọc nhỏ hơn 15 m/giờ.
          - Rửa lọc: khi sử dụng kết hợp với các vật liệu lọc khác có thể tiến hành rửa lọc như trường hợp bể lọc cát thông thường.

Tìm hiểu chỉ số TDS (tổng nồng độ chất rắn hòa tan trong nước)


Chỉ số TDS thường được nhắc tới khi đo kiểm tra nguồn nước, vậy TDS là gì ? Chỉ số này có liên quan thế nào với nước tinh khiết và làm thế nào để làm giảm chỉ số này trong nước?

TDS là gì?

TDS : Total Dissolved Solids  - Tổng chất rắn hoà tan, là tổng số các ion mang điện tích, bao gồm khoáng chất, muối hoặc kim loại tồn tại trong một khối lượng nước nhất định, thường được biểu thị bằng hàm số mi/L hoặc ppm (phần ngìn). TDS thường được lấy làm cơ sở ban đầu để xác định mức độ sạch/ tinh khiết của nguồn nước.

TDS từ đâu ra?

Chất rắn hoà tan đang nói đến ở đây tồn tại dưới dạng các ion âm và ion dương. Do nước luôn có tính hoà tan rất cao nên nó thường có xu hướng lấy các ion từ các vật mà nó tiếp xúc. Ví dụ, khi chảy ngầm trong lòng nói đá, nước sẽ lấy các ion Can-xi, các khoáng chất. Khi chảy trong đường ống, nước sẽ lấy các ion kim loại trên bề mặt đường ống, như sắt, đồng, chì (ống nhựa)

Quan hệ giữa TDS và sự tinh khiết

Theo các quy định hiện hành của WHO, US EPA, và cả Việt Nam, TDS không được vượt quá 500 đối với nước tinh khiết và không vượt quá 1000 đối với nước sinh hoạt
TDS càng nhỏ chứng tỏ nước càng tinh khiết. Một số ứng dụng trong ngành sản xuất điện tử yêu cầu TDS không vượt quá 5.
Tuy nhiên, điều ngược lại không phải luôn đúng. Nguồn nước có TDS cao chưa chắc đã không an toàn, có thể do nó chứa nhiều ion có lợi. Các loại nước khoáng thường không bị giới hạn về TDS.

Khi nào cần giảm TDS

Khi đo thấy chỉ số TDS cao, cần tiếp tục phân tích mẫu nước để xác định thành phần các ion chủ yếu và đối chiếu với các ứng dụng thực tế để quyết định có cần giảm TDS hay không.
Ví dụ đối với nước dùng cho nồi hơi, nước cho máy giặt công nghiệp phải không có các ion can-xi, ma-giê, tránh tình trạng nổ lò hơi hoặc giảm tuổi tho máy giặt... Nếu TDS cao do nhiều ion can-xi, magiê, bắt buộc phải loại bỏ hết ...
Đối với nước khoáng, cũng cần xác định thành phần khoáng để có biện pháp lựa chọn giữ lại hoặc giảm bớt.

Các phương pháp giảm TDS

Khi biết thành phần chính của TDS sẽ có thể áp những phương pháp thích hợp:
Trao đổi ion
Khử ion
Thẩm thấu ngược( máy lọc nước R.O)
Chưng cất

Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012

Hướng dẫn vận hành cột lọc bể bơi

1. Các chứa năng của multivalve

“FILTER”

Lọc nước hồ bơi

“BACKWASH”

Rửa ngược cột lọc

“RINSE”

Rửa xuôi cột lọc

“RECIRCULATE”

Trộn hóa chất

“WASTE”

Xả nước

“CLOSE”

Đóng van

2. Lọc nước tuần hoàn

· Multivale của cột lọc ở vị trí ‘ FILTER”


· Mở van cân bằng


· Đóng van vệ sinh hồ



· Bật máy bơm

· Cột lọc hoạt động bình thương khi đồng hồ áp chỉ 0.5-0.8kh/cm2

3. Rửa cột lọc

· Khi đồng hồ áp trên cột lọc chỉ từ 1kg/cm2 đến 1,3kg/cm2 thị cột lọc đã dơ, phải tiến hành xả rửa cột lọc

· Tắt bơm nước

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘BACKWASH”

· Mở van cân bằng

· Đóng van vệ sinh hồ, mở van xả thẳng

· Bật máy bơm

· Rửa ngược đến khi thấy nước trong (nhìn trong kính quan sát)

· Tắt bơm nước

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘RINSE”

· Bật bơm nước

· Cho xả xuôi rửa cát trong đường ống từ 1 đến 2 phút

· Tắt bơm nước

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘FILTER”

4. Trộn hóa chất

· Châm hóa chất vào hồ

· Tắt máy bơm

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘RECIRCULATE

· Bật máy bơm

· Sau khi trộn khoảng 15 đến 30 phut tắt bơm

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘FILTER”

5. Xả bỏ nước hồ bơi

· Tắt máy bơm

· Chuyển cần gạt của Multivale của cột lọc ở vị trí ‘WASTE

· Đóng van cân bằng

· Mở van xả

· Bật máy bơm

Chuù yù: Phaûi taét bôm tröôùc khi ñoùng môû hoaëc chuyeån vò trí cuûa caùc van

Lê Tuyết

Các kiểu lọc cho hồ bơi



Bạn đã quyết định đầu tư xây dựng một hồ bơi và làm cho nó thật tiện lợi. Vậy thì đây là câu hỏi: vậy loại lọc hồ bơi nào bạn chọn nhằm có được loại nước chất lượng sạch?

Hệ thống lọc rất quan trọng vì nó là chức năng cung cấp cho nước chất lượng sạch hay không. Nếu hệ thống có thể lọc được các vật thể nhỏ nhất thì bạn đã có hệ thống lọc cực kỳ hoàn hảo. Các vật thể này sau đó bị thay ra sau khi rửa lọc và vệ sinh lọc.

Thông thường, trước khi lựa chọn hệ thống lọc bạn cần phải biết sử dụng nhằm mục đích gì. Hầu hết các trường hợp, tình huống là một căn nhà độc lập với hồ bơi thường chỉ được sử dụng bởi các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè than thiết do đó việc sử dụng không quá thường xuyên. Trong trường hợp này không nhất thiết phải đầu tư hệ thống lọc cát “chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, nếu bạn vẫn muốn sử dụng loại hệ thống lọc này, bạn cần có đội ngũ bảo trì chuyên nghiệp, do đó bạn cần phải có 1 người bảo trì hồ bơi cho bạn.

Hồ bơi với hệ thống lọc cát


Một khi hồ bơi đưa vào sử dụng, nó cần được bảo trì hằng ngày. Đáy hồ bơi nên được chà vệ sinh bằng bàn hút và chà hồ. Thật có ích trong trường hợp bạn có ít kiến thức về cơ khí khi làm việc với máy bơm và cột lọc theo các các hướng dẫn của nó. Một bước thực hiện sai làm hư hỏng hệ thống lọc đồng nghĩa với việc bạn sẽ tốn chi phí sửa chữa, khắc phục nó

Lọc cát

Nước được bơm đẩy qua một bình chứa các lớp cát lọc. Phần cặn bẩn sẽ được giữ lại bên trên lớp cát lọc, phầ nước sạch sẽ theo đường ống tuần hoàn vào hồ bơi.

Hệ thống lọc cát

Hồ bơi với Skimmers
Skimmers cho bể bơi cũng rất quan trọng, nó giúp lọc hút các bụi, cặn bẩn, rác, lá cây trên bề mặt nhờ vậy mà bề mặt của bể bơi luôn sạch tránh hiện cho các bụi bẩn, lá cây lắng xuống dưới đáy hồ.
Các Skimmers được lắp đặt sát tường và gần bề mặt của hồ bơi để hút các bụi bẩn, lá cây.. trước khi nó chìm xuống đáy.
Cấu tạo của Skimmer bao gồm một giỏ, nắp đậy và một khoang nước chảy.
Các Skimmers được làm bằng nhựa vị vậy mà gắn cho các hệ thống bể nổi thì dễ dàng thay thế và bền hơn do không phải chịu áp lực của betong, đất



Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2012

Lá thư được viết vào năm 2070


"Life in the year 2070" (Cuộc sống năm 2070) là một trong những bài viết chưa được công bố của cựu tổng thống Ấn Độ - tiến sĩ A. P. J. Abdul Kalam. Nó là một cuộc đối thoại nhân bản giữa các thế hệ về giá trị của môi trường tự nhiên đối với sự tồn vong của loài người.

"Hiện, chúng tôi sống vào năm 2070. Tôi vừa mừng sinh nhật lần thứ 50, thế mà trông như ông cụ 85 tuổi. Tôi bị đau thận rất nặng vì uống quá ít nước. Tôi nghĩ mình sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Hiện giờ tôi đã là người lớn tuổi nhất ở đây.

Tôi vẫn còn nhớ về khoảng thời gian khi mới lên 5 tuổi, mọi thứ đều rất khác với hiện nay. Lúc ấy có nhiều cây trong công viên, nhiều căn nhà trong những khu vườn tuyệt đẹp và tôi có thể tắm thật lâu dưới vòi sen cả giờ đồng hồ. Vậy mà giờ đây, chúng tôi chỉ có thể vệ sinh thân thể bằng những chiếc khăn ẩm thấm dầu khoáng dùng một lần rồi bỏ.

Trước đây phụ nữ thường tự hào về mái tóc mềm mại và suôn thẳng của mình. Thế mà bây giờ, mọi cô gái đều phải cạo trọc đầu để giữ vệ sinh khi không còn nước gội rửa. Trước đây cha tôi từng xịt rửa xe hơi bằng những luồng nước ào ạt tuôn ra từ chiếc ống dẫn, nay thì lũ con của tôi khó mà tin nổi rằng có một thời người ta đã dùng nước vào những việc kinh khủng như thế.

Nếu không gìn giữ, nguồn nước sẽ ngày càng cạn kiệt. Ảnh minh họa.

Thời ấy, tôi còn nhớ nhiều nơi đã treo tấm bảng cảnh cáo: “Đừng lãng phí nước”. Nhưng chẳng ai để ý cả. Mọi người cứ nghĩ rằng nước không bao giờ cạn. Bây giờ phần lớn các con sông, đầm lầy, suối nước, cũng như nguồn nước ngầm đều bị ô nhiễm không thể hồi phục. Số còn lại khô cạn hoàn toàn.

Khu vực xung quanh nơi chúng tôi ở đã biến thành sa mạc nóng bỏng bát ngát. Các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, ung thư da và chứng rối loạn đường tiểu đang trở thành nguyên nhân chính gây chết người.

Nhiều khu công nghiệp bị tê liệt và tỷ lệ mất việc tăng cao chưa từng có. Trong khi đó, các nhà máy lọc nước muối lại trở thành nơi làm việc chính của mọi người. Thay vì trả lương bằng tiền, họ đã dùng nước để thay thế. Điều đáng sợ nhất là có rất nhiều trường hợp bị giết để cướp nước uống nơi các con đường vắng vẻ ở ngoại ô thành phố. Tất cả thức ăn mà chúng tôi dùng hàng ngày đều được tổng hợp bằng hóa chất.

Trước đây các bác sĩ thường khuyên người lớn nên uống tám ly nước mỗi ngày. Giờ tôi chỉ được phép uống nửa ly thôi. Vì không thể giặt quần áo được chúng tôi đã vứt chúng sau vài lần mặc và như thế làm tăng nhanh chóng số lượng rác thải ra môi trường bên ngoài. Chúng tôi phải sử dụng lại loại hố xí tự hoại như người ta đã dùng thời Trung cổ, chỉ đơn giản vì hệ thống xử lý chất thải không thể hoạt động được do thiếu nước.

Mọi người trông như những bóng ma: thân thể họ lờ đờ vì yếu đuối, nứt nẻ vì thiếu nước trầm trọng và bị lở loét vì ung thư da do bầu khí quyển không còn khả năng ngăn chặn tia tử ngoại khi tầng ozone bị phá hủy.

Vì lớp da bị khô nứt, con gái tôi mới 20 tuổi đã trông giống như một bà già 40 tuổi. Các nhà khoa học đã tìm mọi cách để nghiên cứu và khám phá nhưng vẫn chưa đạt được bất cứ kết quả khả quan nào. Chúng tôi không thể chế tạo ra nước. Hiện tượng cây cỏ chết khô làm giảm lượng oxy trong không khí, khiến chỉ số thông minh của các thế hệ loài người sinh ra kế tiếp bị suy sụp nhanh chóng. Cấu trúc tinh trùng của nhiều người đàn ông bị biến thể... gây nhiều hiện tượng khiếm khuyết, đột biến và dị tật ở trẻ sơ sinh.

Các Chính phủ thậm chí còn đánh thuế trên mỗi hơi thở của công dân mình: người lớn chúng tôi chỉ được phép thở 137 m3 không khí cho một ngày (nghĩa là gần bằng 31.102 gallon không khí). Những người nào không thể đóng thuế sẽ bị trục xuất ra khỏi khu vực “thoáng khí”, nơi có không khí dễ thở được cung cấp nhờ những lá phổi máy nhân tạo khổng lồ chạy bằng năng lượng mặt trời. Tuy vậy, lượng không khí ở những “khu vực thoáng khí” cũng chẳng trong lành gì, nhưng ít nhất là chúng tôi vẫn còn có thể hít vào thở ra được. Giờ đây, tuổi thọ bình quân của con người là 35 tuổi.

Một số quốc gia còn bảo tồn và lưu giữ được một ít các hòn đảo có cây xanh và suối nước ở trên đó. Và họ bảo vệ khu vực này rất chặt chẽ với lực lượng quân đội trang bị hùng hậu. Nước trở thành một thứ hàng xa xỉ khó kiếm được, quý hơn cả kho báu và nhiều khi có giá cao hơn cả vàng hoặc kim cương.

Dĩ nhiên với một tình trạng như thế, hầu hết cây cối đều chết khô vì thiếu mưa. Và cứ mỗi lần trời mưa thì nước mưa có chứa hàm lượng axít rất cao gây gỉ sét và tàn phá nhà cửa của chúng tôi. Chúng tôi không còn phân biệt được mùa hè với mùa đông. Những dấu hiệu biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính và các hoạt động làm ô nhiễm môi trường của con người mà trong thế kỷ 20 chúng tôi đã từng phớt lờ, giờ đây ngày càng nghiêm trọng. Chúng tôi đã được cảnh báo về việc phải bảo vệ môi trường, thế mà chẳng ai chịu khó lắng nghe.

Khi con gái tôi nằng nặc đòi bố kể chuyện về thời còn bé thơ của bố nó, tôi đã mô tả cho cháu nghe về vẻ đẹp của những khu rừng. Tôi mơ màng kể về những cơn mưa đầu mùa ướt đẫm, về những bông hoa nở rộ, về cảm giác dễ chịu khi được tắm mát, về những con cá quẫy nước dưới dòng sông, về những vùng hồ bát ngát xanh trong, và về cái thời mà tôi có thể uống bao nhiêu nước tùy thích. Tôi kể cháu nghe con người lúc ấy thật khỏe mạnh biết bao. Con bé chợt gọi làm tôi tỉnh giấc mơ: “Bố ơi! Sao chúng ta không còn nước nữa?”.

Tôi chợt cảm thấy cổ họng khô khốc... Tôi chẳng còn gì để biện minh cho mặc cảm tội lỗi của mình vì tôi thuộc về một thế hệ đã hoàn thành công việc hủy hoại môi trường của chúng tôi, chỉ vì xem thường các cảnh báo ấy... Rất nhiều người đã có thái độ như thế!

Tôi thuộc về thế hệ loài người cuối cùng đã có thể cứu vớt hành tinh này, nhưng đã chọn cách thờ ơ và không hành động. Giờ đây, con cái chúng tôi phải trả giá quá đắt. Thành thật mà nói, tôi nhận ra rằng không bao lâu nữa trái đất sẽ không còn là nơi thích hợp cho bất cứ sự sống nào nữa. Đó là vì những tác động hủy hoại môi trường của con người đã vượt quá mức không thể cứu vãn. Ôi! Tôi ước gì có thể quay trở lại quá khứ và giúp nhân loại hiểu được điều này... khi mà người ta vẫn còn kịp làm một điều gì đó để cứu lấy hành tinh này.

Hãy gửi lá thư này cho tất cả mọi người bạn gặp, và hãy bắt tay vào việc cảnh báo, dù là nhỏ bé, về một ý thức toàn cầu bảo vệ nguồn nước sạch. Đây không phải là một trò đùa mà đó đã là định mệnh của chúng ta. Hãy làm vì con cái bạn dù bây giờ bạn chưa có con, thì sau này bạn sẽ có... Đừng để lại di sản là một hỏa ngục... Hãy để lại sự sống cho các cháu". (trích từ lá thư "Life in the year 2070" (Cuộc sống năm 2070) của cựu tổng thống Ấn Độ - tiến sĩ A. P. J. Abdul Kalam)

Đọc bức thư này xong, tôi vô cùng hoảng sợ trước sự hủy diệt môi trường sống của thế hệ chúng ta. Đây là bức thư cảnh tỉnh cho chúng ta, nếu không có biện pháp tích cực chống biến đổi khí hậu thì hậu họa sẽ đến với con cháu của chúng ta. Hiện tại chúng ta sống trong môi trường ô nhiễm đã đến mức độ báo động đỏ. Chúng ta cần chung tay, chung sức bảo vệ môi trường sống dù một việc rất nhỏ ở tầm vi mô như không vứt rác bừa bãi, đến tầm vĩ mô không vì lợi ích của thế hệ bây giờ mà phá hủy môi trường sống để đời sau khó có thể khắc phục được. Hãy làm cho thế giới xanh, sạch, đẹp, văn minh và hiện đại.

Tìm kiếm Blog này